Viêm quanh khớp vai có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm

Mặc dù viêm quanh khớp vai thể đông không phải là một căn bệnh nguy hiểm, nhưng quá trình bệnh kéo dài rất lâu và gây cứng khớp vai làm hạn chế vận động, ảnh hưởng lớn đến tính mạng của bệnh nhân.

Để hạn chế ảnh hưởng của viêm quanh khớp vai thể đông, điều quan trọng nhất là phát hiện bệnh sớm và điều trị đúng cách. Nếu phát hiện muộn, việc điều trị sẽ khó khăn, hiệu quả điều trị thường kém. Vai không có khả năng quay trở lại phạm vi chuyển động ban đầu của nó.

1. Nguyên nhân gây viêm quanh khớp vai thể đông

Đông cứng vai, còn được gọi là vai đông lạnh, là một bệnh đặc trưng bởi đau và phạm vi chuyển động hạn chế ở khớp vai. Đây là một dạng viêm khớp vai phổ biến, phổ biến thứ hai sau viêm khớp vai thông thường.

Trong viêm khớp vai đông lạnh, viên nang và bursa bị viêm, các ổ viêm của màng hoạt dịch bám vào các nếp gấp của viên nang, ngăn chúng tách ra khi viên nang cần được kéo dài. Viên nang khớp trở nên dày và cứng do các ổ hoại tử và các tế bào viêm xâm nhập. Viên nang khớp dần dần thắt chặt đỉnh khớp vai, do đó đầu của khớp vai không còn có thể trượt vào ổ cắm, khớp vai dường như bị đóng băng.

Mặc dù nguyên nhân của việc đóng băng vai vẫn chưa được biết, nhưng các yếu tố nguy cơ được báo cáo bao gồm:

Giới tính: Bệnh xảy ra ở nam giới thường xuyên hơn ở phụ nữ, độ tuổi mắc bệnh khoảng 40-60, hiếm khi xảy ra ở người trẻ tuổi.

Những người có tiền sử chấn thương khớp vai, dù cứng hay mềm, hoặc những người đã bất động trong một thời gian dài, chẳng hạn như bất động do gãy xương.

Những người tập thể dục mạnh mẽ cánh tay liên tục trong nhiều tuần liên tiếp để chơi các môn thể thao như tennis, cầu lông,…

Những người làm nghề thường gây run vai như lái máy ủi và máy đầm.

Bệnh nhân bị đột quỵ não sẽ có tỷ lệ đông cứng vai ở phía bị liệt cao gấp 3-4 lần so với dân số nói chung. Trong khi đó, những người mắc bệnh tiểu đường có tỷ lệ đông máu khớp cao gấp 5 đến 6 lần so với những người không mắc bệnh tiểu đường.

Các bệnh mãn tính khác như viêm khớp dạng thấp, cường giáp, suy giáp, bệnh phổi mãn tính, đau thắt ngực,… Một số bệnh nhân bị viêm quanh khớp rắn nhưng không thể xác định được các yếu tố. Có nguy cơ, những trường hợp này có thể được gây ra bởi các rối loạn của hệ thống miễn dịch, bởi các yếu tố nội tiết hoặc do rối loạn thần kinh ở khớp vai.

2. Triệu chứng viêm quanh khớp vai thể đông

Viêm quanh khớp vai thể đông thường tiến triển qua 3 giai đoạn: giai đoạn đau vai, giai đoạn vai đông lạnh và giai đoạn tan băng.

Trong giai đoạn đau vai, bệnh nhân bị đau vai nhẹ ban đầu sau vài tuần hoặc vài tháng, cơn đau tăng dần, cơn đau kéo dài vài tháng, đau khi nghỉ ngơi và đau vào ban đêm. Ở giai đoạn này, không có hạn chế về chuyển động khớp vai, nhưng do đau, phạm vi chuyển động của khớp giảm dần, các chuyển động chải tóc, gãi lưng, đưa tay về phía trước và phía sau bị hạn chế.

Sau 6-8 tháng, bệnh chuyển sang vai đông lạnh. Tại thời điểm này, chuyển động của khớp vai đã giảm đến mức bị đóng băng. Để thực hiện một động tác của cánh tay, nó phải liên quan đến chuyển động của xương bả vai của bệnh nhân, khớp phế nang – cánh tay gần như bất động. Bệnh nhân không thể di chuyển vai, vươn lên hoặc với lấy đồ vật. Tay bị khớp vai đông lạnh bị suy giảm nghiêm trọng. Khi khớp ngày càng bị đóng băng, các triệu chứng đau giảm dần nhưng cơn đau không biến mất hoàn toàn. Giai đoạn vai đông lạnh thường kéo dài từ hai đến sáu tháng.

Trong giai đoạn tan băng, khả năng vận động của khớp vai tăng dần nhưng chậm. Phải mất một đến chín tháng để khớp trở lại bình thường, đôi khi thậm chí nhiều năm. Tuy nhiên, khi khả năng vận động của vai được cải thiện, các triệu chứng đau vai trở lại, cơn đau không còn nhiều như trước, nhưng kéo dài đến vài tháng sau khi khớp vai đã di chuyển bình thường.

3. Các biện pháp điều trị viêm quanh khớp thể đông

Viêm quanh khớp rắn là một căn bệnh khó điều trị vì viên nang khớp bị viêm, dày và xơ dẫn đến mất chức năng khớp. Ngoài việc giảm đau chống viêm, cần kết hợp các biện pháp giãn nở viên nang khớp, phá vỡ độ bám dính giúp phục hồi chức năng khớp.

3.1. Điều trị bằng thuốc

Về sử dụng ma túy, lần đầu tiên, bệnh nhân có thể sử dụng thuốc giảm đau Paracetamol, thuốc chống viêm NSAID dạng uống hoặc tiêm, trong trường hợp đau dữ dội ở giai đoạn đầu và giai đoạn rã đông, có thể cân nhắc corticosteroid. .

Trong giai đoạn đông máu, corticosteroid có thể được kết hợp với thuốc gây tê cục bộ trong bơm áp lực, tiêm vào khớp để loại bỏ các sợi dính. Khi bơm, nó sẽ có cảm giác như viên nang khớp bị rách nhưng đó là các điểm dính được loại bỏ. Các vị trí tiêm là trước, kém hơn và bên với cranium của không gian khớp vai. Nên được tiêm theo hướng dẫn siêu âm để đến đúng vị trí. Cần chú ý đến các tình trạng vô trùng khi tiêm, nếu không vô sinh tốt sẽ dẫn đến các biến chứng của nhiễm trùng vai.

3.2. Điều trị vật lý trị liệu

Thuốc giảm đau chống viêm chỉ giúp kiểm soát cơn đau và giảm viêm, để giải phóng viên nang khớp dính, cứng và cải thiện phạm vi chuyển động của khớp vai, cần phải thực hiện các biện pháp vật lý trị liệu. Đối với bệnh nhân viêm quanh khớp vai đông lạnh, vật lý trị liệu đóng một vai trò quan trọng mà không có phương pháp điều trị nào khác có thể thay thế được. có thể hoạt động như trước. Các phương pháp vật lý trị liệu thường được sử dụng là:

Sử dụng các phương pháp vật lý như sóng ngắn, lò vi sóng, bức xạ hồng ngoại, lò vi sóng, điện xung, điện di ion thuốc có tác dụng chống viêm và tăng lưu thông dinh dưỡng cho khớp vai.

Thực hiện các bài tập chức năng như: bài tập con lắc, tập thể dục bằng dụng cụ, thao tác và thao tác thủ công, tập theo phạm vi chuyển động vai với các động tác uốn cong cánh tay về phía trước, cánh tay uốn cong về phía sau, cánh tay xoay,… giúp kéo dài viên nang khớp, phá vỡ các khớp khớp, tăng diện tích khớp, từ đó làm tăng phạm vi chuyển động của khớp vai. Thực hành 2 lần một ngày, ít nhất 30 phút đến 1 giờ mỗi lần.

3.3. Điều trị can thiệp

Khi điều trị y tế không hiệu quả, chức năng khớp vai của bệnh nhân bị suy giảm nghiêm trọng, bác sĩ có thể kê toa các phương pháp điều trị can thiệp như:

3.3.1. Phẫu thuật nội soi khớp vai

Phẫu thuật khớp vai để mổ xẻ sự kết dính, cắt gai xương, cắt các dải sợi, các ổ viêm mãn tính của viên nang khớp. Tuy nhiên, sau phẫu thuật, bệnh nhân vẫn phải tiếp tục thực hành phục hồi chức năng, nếu không viên nang khớp sẽ dính trở lại.

3.3.2. Kéo căng khớp vai dưới làm tê dây thần kinh vai trên

Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chống viêm để giảm đau ở khớp vai trong một tuần, sau đó được gây mê và thực hiện kỹ thuật bóc tách kéo. Sau khi làm thủ thuật, tiếp tục cho bệnh nhân uống thuốc giảm đau chống viêm và vật lý trị liệu để ngăn viên nang khớp tái dính.

Viêm quanh khớp vai đông lạnh không phải là một căn bệnh nguy hiểm vì nếu không được điều trị, bệnh vẫn có tiên lượng tốt. Tuy nhiên, thời gian để chức năng khớp vai trở lại bình thường là rất dài, giai đoạn tan băng thường kéo dài từ sáu tháng đến hai năm, trong một số trường hợp có thể lâu hơn. Phát hiện và điều trị sớm bệnh đóng vai trò quan trọng, giúp rút ngắn quá trình bệnh, đồng thời nhanh chóng phục hồi khớp vai. Nếu bệnh được điều trị ở giai đoạn sớm, sự kết hợp giữa thuốc và các bài tập vật lý trị liệu thường mang lại kết quả khả quan, bệnh nhân thường hồi phục sau 1-2 tháng điều trị. Nếu bệnh đã tiến triển đến giai đoạn hai, việc điều trị sẽ khó khăn, thường có kết quả kém.

Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn hoặc https://nhathuochapu.vn