Viêm gan B ở trẻ em: Những điều bạn cần biết

Viêm gan B ở trẻ em là mối quan tâm lớn đối với các bậc cha mẹ. Bởi viêm gan B là một trong những căn bệnh cực kỳ nguy hiểm, do virus viêm gan B gây ra. Viêm gan B lâm sàng ở trẻ em có nhiều đặc điểm khác với người lớn và việc điều trị viêm gan B mạn tính ở trẻ em cũng phức tạp hơn rất nhiều. Vì vậy, cha mẹ nên trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để bảo vệ sức khỏe cho bé một cách an toàn và hiệu quả nhất.

1. Nguyên nhân gây viêm gan B ở trẻ em

Viêm gan B là một bệnh truyền nhiễm do virus viêm gan B gây ra. Bệnh lây truyền qua 3 cách: Đổ máu, qua đường tình dục và lây truyền từ mẹ sang con.

Nguyên nhân chính khiến trẻ bị viêm gan B là do bệnh lây truyền từ mẹ sang con. Trên thực tế, ở các nước châu Á, đây là con đường lây nhiễm viêm gan B phổ biến do kiến thức của người dân về căn bệnh này còn hạn chế, nhiều người chưa được tiêm phòng đầy đủ. Ở Việt Nam cũng vậy, nhiều phụ nữ chưa được tầm soát bệnh trước và trong khi mang thai. Theo một số nghiên cứu, tại Việt Nam, hơn 10% phụ nữ mang thai bị nhiễm virus viêm gan B. Đây là một tỷ lệ rất lớn.

Nếu người mẹ bị viêm gan B trong giai đoạn đầu của thai kỳ (3 tháng đầu) thì tỷ lệ người mẹ truyền virus cho con chỉ thấp (khoảng 1%), còn nếu mẹ bị viêm gan B Trong 3 tháng cuối thai kỳ, tỷ lệ mẹ truyền mầm bệnh cho con lên đến 10%. Đặc biệt nếu người mẹ bị bệnh trong 3 tháng cuối của thai kỳ, tỷ lệ các bà mẹ truyền mầm bệnh cho con tăng lên. lên đến 60-70%. Như vậy, tỷ lệ mẹ bầu bị nhiễm virus viêm gan B truyền sang thai nhi từ tháng thứ 3 trở đi là rất cao.

Khoảng 90% trẻ em bị nhiễm bệnh trong giai đoạn sơ sinh. Nguyên nhân là do virus trong máu và dịch của người mẹ sẽ được truyền sang cơ thể trẻ. Đặc biệt là trẻ sơ sinh có hệ miễn dịch chưa trưởng thành sẽ không đủ sức đề kháng để tiêu diệt virus. Từ đó, bệnh sẽ dễ dàng phát triển và chuyển sang giai đoạn mãn tính nguy hiểm, không có cách chữa trị. Trẻ sơ sinh bị viêm gan B có nguy cơ cao phát triển xơ gan và ung thư gan ở tuổi trưởng thành.

Ngày nay, để đánh giá sự tiến triển của virus viêm gan B trong cơ thể người nhiễm bệnh, có nhiều phương pháp khác nhau, nhưng phổ biến nhất và áp dụng trong các phòng xét nghiệm bệnh viện tỉnh là xác định HBsAg. và HBeAg.

HBsAg là kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B. Khi xét nghiệm dương tính, nó chứng tỏ rằng cơ thể của người đó bị nhiễm virus này. HBeAg cũng là một kháng nguyên của virus này (kháng nguyên lõi). Khi kháng nguyên này xuất hiện và tồn tại, nó chứng tỏ rằng virus đang nhân lên (tăng sinh và các tế bào gan đang bị tổn thương). Trong giai đoạn này, nếu bạn làm các xét nghiệm men gan (SGOT, SGPT, GGt), bạn sẽ thấy các men gan này tăng rất cao (ít nhất gấp đôi chỉ số bình thường) do các tế bào gan bị virus phá hủy. giải phóng men gan. Thống kê cho thấy, khi xét nghiệm máu của phụ nữ mang thai trong 3 tháng qua cho thấy cả HBsAg và HBeAg đều dương tính, tỷ lệ lây truyền virus từ mẹ sang con lên đến 90-100%. Tuy nhiên, nếu chỉ có HBsAg dương tính, trong khi HBeAg âm tính thì tỷ lệ mẹ lây truyền cho con thấp hơn nhiều (khoảng 20%).

2. Triệu chứng

Khi bị nhiễm virus viêm gan B, trẻ có thể mang virus mà không có bất kỳ triệu chứng nào và vẫn sống, học tập và phát triển bình thường. Khi có một số điều kiện thuận lợi như nhiễm trùng nặng, sức khỏe kém…, virus sẽ gây viêm gan cấp.

Trong giai đoạn trước khi vàng da, nó thường kéo dài 7-10 ngày với các triệu chứng giống như cúm như sốt, sổ mũi, mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, có thể tiêu chảy, táo bón, đầy hơi và tiêu chảy. Phân của trẻ bú sữa mẹ có thể bị đổi màu. Gan có thể to, đau khi ấn, góc phần tư dưới bên phải và nước tiểu sẫm màu. Khi đó, cha mẹ cần đưa ngay con đến bệnh viện hoặc phòng khám chuyên khoa gan để được điều trị phù hợp trong thời gian sớm nhất.

Tiếp theo là thời kỳ vàng da, nước tiểu sẫm màu và niêm mạc mắt vàng. Có thể có những đốm hoặc mảng xuất huyết trên da do chức năng gan bị suy giảm. Thường thì gan to ra, đau và đau ở góc phần tư dưới bên phải ở trẻ lớn hơn và lá lách to có thể xảy ra (tuy nhiên, nếu kích thước gan giảm, tiên lượng xấu). Bụng của trẻ có thể hơi phình to, kém ăn và có chất nhầy mỡ trong phân. Trong giai đoạn này, cơn sốt của trẻ giảm dần, vàng da giảm dần và biến mất trong vòng 2-3 tuần kể từ khi phát bệnh. Các triệu chứng trên giảm dần, trẻ ăn ngon hơn và nước tiểu trong.

Ở trẻ sơ sinh, các triệu chứng của bệnh có thể không rõ ràng, đôi khi chỉ xuất hiện vàng da và cho ăn kém. Các bà mẹ thường nghĩ đó là vàng da sinh lý, hoặc không chú ý vì luôn để con ở phòng tối nên không đưa con đi khám và điều trị kịp thời, gây hậu quả nghiêm trọng như suy gan, xuất huyết. máu não…

Khi bị nhiễm viêm gan B, kháng nguyên bề mặt (HbsAg) tồn tại trong máu của bệnh nhân trong hơn 6 tháng, nó được coi là mãn tính, nó được đặc trưng bởi 4 giai đoạn miễn dịch của bệnh.

Giai đoạn 1: HBsAg và HbeAg được phát hiện

HBV DNA > 100.000 bản sao/ml.

Men gan (ALT, AST) nằm trong giới hạn bình thường.

Không có dấu hiệu viêm gan và xơ gan hoặc chúng rất nhẹ.

Giai đoạn 2: HBsAg và HbeAg vẫn tồn tại

HBV DNA > 100.000 bản sao/ml.

Men gan (ALT, AST) tăng liên tục.

Viêm gan và xơ gan có thể phát triển.

Giai đoạn 3: HBsAg vẫn còn hiện diện

HBeAg biến mất, anti-Hbe xuất hiện.

HBV DNA < 10.000 bản sao/ml hoặc không phát hiện.

Men gan (ALT, AST) là bình thường.

Không có dấu hiệu viêm gan, dấu hiệu xơ gan sẽ thoái lui.

Giai đoạn 4: HBsAg vẫn còn hiện diện

HBeAg vẫn âm tính và anti-Hbe vẫn dương tính.

HBV DNA > 10.000 bản sao/ml.

Men gan (ALT, AST) bình thường hoặc tăng.

Viêm gan có thể tích cực và có thể dẫn đến xơ gan.

3. Điều trị

3.1 Những trường hợp nào nên được điều trị?

Trẻ em được xác định là bị nhiễm viêm gan B mãn tính cần theo dõi thường xuyên tiến triển bệnh bao gồm: khám lâm sàng và đánh giá các xét nghiệm huyết thanh ALT, AFP, HBsAg, HBeAg, kháng HBe và HBV DNA.

Ngoài ra, một bảng điều khiển hoàn chỉnh các xét nghiệm chức năng gan và tiểu cầu nên được kiểm tra định kỳ. Tỷ lệ AST so với ALT tăng thường là dấu hiệu của xơ hóa tiến triển, đặc biệt nếu chỉ số AST trở nên lớn hơn ALT.

Khả năng một đứa trẻ bị nhiễm viêm gan B mãn tính có AST > ALT có nguy cơ xơ gan là rất đáng kể và để xác nhận đánh giá này, sinh thiết gan có thể được thực hiện. Tuy nhiên, AST > ALT cũng có thể được nhìn thấy thoáng qua ở trẻ em gần đây đã uống rượu hoặc sau khi hoạt động thể chất mạnh mẽ, và các khả năng khác cần phải được loại trừ trước khi thực hiện tìm kiếm các sợi này. tiến triển do HBV. Giảm tiểu cầu có thể là dấu hiệu sớm của lách to do tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong trường hợp xơ gan.

Tăng chỉ số men gan (ALT) trong huyết thanh cho thấy mức độ hoại tử của tế bào gan, nghĩa là tổn thương gan. Ở người lớn, chỉ số ALT trên giới hạn bình thường đối với nam giới là >30 IU / L và đối với phụ nữ là >19 IU / L. Nhưng ULN ở trẻ em vẫn chưa được thiết lập và đối với trẻ em, ULN được sử dụng thường thay đổi tùy thuộc vào phòng thí nghiệm và độ tuổi của trẻ. Trong trường hợp không có tiêu chuẩn cho trẻ em, ALT được coi là tăng lên lớn hơn ULN trong phòng thí nghiệm hoặc > 40 IU / L.

3.2 Trẻ em có men gan ALT bình thường

Trong điều trị trẻ em bị nhiễm viêm gan B mãn tính, việc xác định bệnh nhân không cần điều trị cũng quan trọng như xác định bệnh nhân.

Như đã nêu ở trên, phần lớn trẻ em bị nhiễm viêm gan B chu sinh vẫn ở giai đoạn 1 trong suốt thời thơ ấu và thường đến tuổi trưởng thành. Thời gian dài nhất của giai đoạn này thường thấy ở những người bị nhiễm HBV genotype C (HBV có 8 kiểu gen từ A đến H) và tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg ở trẻ em bị nhiễm HBV genotype C là rất thấp. Những đứa trẻ này luôn là HBeAg (+) với DNA HBV cao khoảng 100.000 bản sao / ml và có thể cao hơn. Tuy nhiên, không có hoạt động đáp ứng miễn dịch gây bệnh và ALT vẫn ở mức bình thường. Dữ liệu lâm sàng được công bố hỗ trợ điều trị nhi khoa trong giai đoạn này rất hạn chế.

3.3 Trẻ em có men gan ALT tăng liên tục

Nồng độ ALT huyết thanh cao dai dẳng được đặc trưng ở giai đoạn 2 của bệnh.

Nồng độ ALT huyết thanh tăng cao là dấu hiệu của hoại tử và tổn thương tế bào gan. Cụ thể, một đứa trẻ có nồng độ ALT huyết thanh lớn hơn 1,5 lần ULN trong phòng thí nghiệm hoặc lớn hơn 60 IU / L (tức là 1,5 x 40 IU / L) cần được đánh giá thêm. HBV DNA và cấp độ mô học gan để xem xét điều trị thích hợp.

Nếu nồng độ ALT huyết thanh thấp hơn mức trên, nó phải được theo dõi hơn 2 lần trong ít nhất 6 tháng đối với bệnh nhân dương tính với HBeAg và phải được theo dõi hơn 3 lần trong ít nhất 12 tháng đối với bệnh nhân âm tính với HBeAg.

Lý do để theo dõi nồng độ ALT huyết thanh cao liên tục trong ít nhất 6 tháng ở bệnh nhân dương tính với HBeAg là để tránh điều trị cho trẻ trong quá trình chuyển đổi huyết thanh HBeAg tự phát và bệnh sẽ cải thiện mà không cần điều trị. Điều trị.

3.4 Các trường hợp đặc biệt sau đây cần điều trị lâu dài

Chức năng gan suy giảm nhanh chóng.

Xơ gan (bù đắp hoặc mất bù).

Viêm cầu thận do nhiễm HBV.

Nhiễm virus viêm gan B tái phát sau khi ghép gan.

Sự hiện diện của các chủng vi-rút (HBV / HIV, HBV / HCV, HBV / HDV).

Trẻ em có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tế bào gan.

Phụ nữ mang thai có tải lượng virus cao (> 20.000.000 IU / ml) trong tam cá nguyệt thứ ba.

4. Phòng ngừa

Khi em bé chào đời, nếu phát hiện người mẹ dương tính với viêm gan B, em bé sẽ được tiêm vắc-xin viêm gan B và kháng huyết thanh để giúp bảo vệ em bé trong thời kỳ hậu sản. Trẻ em nên được tiêm vắc-xin viêm gan B đầy đủ và kiểm tra hiệu giá kháng thể khi đủ điều kiện. Hầu hết những điều trên sẽ giúp bé phòng ngừa hiệu quả

Tiêm phòng là cách phòng ngừa hiệu quả và đảm bảo nhất. Trẻ em sinh ra từ các bà mẹ bị viêm gan B nên được tiêm một mũi globulin chống HBV và một mũi tiêm vắc-xin viêm gan B trong vòng 12 giờ đầu sau khi sinh. Tiếp theo, cho tất cả các liều theo chế độ. Khi trẻ được 1 tháng tuổi, tiêm mũi thứ 2, 2 tháng tuổi, tiêm mũi thứ 3 và lặp lại lúc 12 tháng tuổi.

Nếu trẻ được chẩn đoán mắc bệnh, cần tuân thủ hướng dẫn và tư vấn của bác sĩ vì viêm gan B ở trẻ em có thể dễ dàng phát triển thành bệnh mãn tính. Cùng với đó, đưa con đi khám sức khỏe định kỳ để kiểm tra sức khỏe và theo dõi tình hình bệnh tật.