Thông tin về viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính

Viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính và viêm túi mật là những cấp cứu y tế và phẫu thuật phổ biến. Bệnh hoàn toàn có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng nếu bệnh nhân không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Viêm đường mật cấp tính đòi hỏi sự kết hợp của các can thiệp y tế và phẫu thuật.

1. Viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính là gì?

Viêm túi mật hoặc viêm đường mật cấp tính là thuật ngữ chỉ viêm cấp tính và nhiễm trùng túi mật và ống mật. Cơ chế bệnh sinh thường liên quan đến sỏi mật và sỏi đường mật. Tuy nhiên, có thể là do một số yếu tố khác kết hợp như giảm tưới máu, rối loạn chức năng đường mật, ô nhiễm hóa chất độc hại, nhiễm trùng hoặc phản ứng dị ứng…

Viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính ở Việt Nam chủ yếu do 2 nguyên nhân chính là giun và sỏi mật, trong đó phần lớn (khoảng 95%) là sỏi mật cỡ lớn. Ngoài ra, sỏi mật là bệnh gan mật thứ hai ở Việt Nam, chỉ sau viêm gan. Theo thống kê, các loại sỏi mật phổ biến ở các nước châu Âu và châu Mỹ chủ yếu là sỏi mật (90%) với bản chất là sỏi cholesterol. Ở Pháp, theo thống kê, tỷ lệ mắc sỏi mật ở người lớn là khoảng 10 – 15%, trong khi ở Tây Âu và Nam Mỹ là khoảng 10-30%. Riêng ở Nhật Bản, sỏi mật chiếm khoảng 5% và chủ yếu là sỏi sắc tố mật.

Mật người là chất lỏng vô trùng, trong trường hợp đường mật bị tắc nghẽn sẽ khiến sự di chuyển của mật bị ứ đọng, có thể dẫn đến nhiễm trùng, gây viêm đường mật. tắc nghẽn cấp tính. Viêm đường mật cấp tính cũng có thể xảy ra sau viêm túi mật hoặc các thủ thuật (chẳng hạn như nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP)) khiến vi khuẩn hồi sinh lên ống mật chủ.

Một số nguyên nhân khác của viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính:

Một số loại khối u, chẳng hạn như ung thư tuyến tụy, ung thư đường mật, ampulla của vater hoặc khối u gan cổng;

Thu hẹp đường mật do nhiều nguyên nhân khác nhau;

Thoát vị ống mật chủ;

Bệnh đường mật ở bệnh nhân AIDS;

Nhiễm ký sinh trùng như giun tròn và sán lá gan.

2. Triệu chứng viêm đường mật cấp tính

Bệnh nhân bị viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính thường có 3 triệu chứng cụ thể, được gọi là bộ ba Charcot, bao gồm vàng da, sốt và đau góc phần tư phía trên bên phải (được tìm thấy ở khoảng 50-70% bệnh nhân). Trong đó, người lớn có biểu hiện không rõ ràng, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý phẫu thuật bụng khác.

Một số bệnh nhân (khoảng 10-20%) bị viêm đường mật tắc nghẽn nặng bị hạ huyết áp nặng do nhiễm trùng huyết dẫn đến sốc và lú lẫn, được gọi là năm hội chứng Reynolds.

Viêm đường mật cấp tính được phân thành 3 cấp, bao gồm độ 1 (nhẹ), độ 2 (trung bình) và độ 3 (nặng). Đặc biệt, viêm đường mật cấp tính độ 3 là bệnh nhân vừa bị viêm đường mật vừa bị tổn thương chức năng của ít nhất 1 cơ quan khác như tim mạch, thần kinh, hô hấp, thận, gan và huyết học.

Các đặc điểm khác gợi ý viêm đường mật tắc nghẽn bao gồm:

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu ngứa da hoặc phân nhợt nhạt;

Tiền sử bệnh trước đây với sỏi mật được ghi nhận, sỏi ống mật chủ, cắt túi mật gần đây, ERCP hoặc các thủ thuật xâm lấn khác liên quan đến đường mật, nhiễm HIV / AIDS;

Bệnh nhân có thể bị viêm phúc mạc, nhưng điều này hiếm gặp và cần xem xét các nguyên nhân khác trước khi chẩn đoán viêm đường mật tắc nghẽn.

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính:

Các triệu chứng của nhiễm trùng toàn thân bao gồm: sốt cao, ớn lạnh và ớn lạnh với kết quả xét nghiệm chứng minh nhiễm trùng như tăng số lượng bạch cầu, CRP tăng;

Các triệu chứng của ứ mật như vàng da và kết quả xét nghiệm bất thường của chức năng gan (men gan tăng cao) và tăng bilirubin.

3. Điều trị viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính

Điều trị ban đầu viêm đường mật cấp tính bao gồm hồi sức dịch, điều chỉnh rối loạn đông máu và sử dụng thuốc kháng sinh phổ rộng, mạnh. Đặc biệt ở những bệnh nhân bị sốc nặng, cần cung cấp đủ oxy và điều chỉnh cân bằng nước và điện giải.

Đồng thời, cần theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu sinh tồn như mạch, huyết áp, nhiệt độ và nhịp thở. Điều trị bằng kháng sinh đòi hỏi phải sử dụng các đường truyền tĩnh mạch trước khi cấy máu để kháng kháng sinh, tác dụng của kháng sinh phải có hiệu quả chống lại cả vi khuẩn kỵ khí và gram âm.

Hầu hết bệnh nhân bị viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính đáp ứng tốt với liệu pháp kháng sinh, nhưng một số bệnh nhân cần dẫn lưu đường mật để điều trị tắc nghẽn đường mật. Hình thức và thời gian dẫn lưu phụ thuộc vào tình trạng, mức độ nghiêm trọng của bệnh nhân và phù hợp với năng lực của cơ sở điều trị. Các chuyên gia khuyến cáo 3 giai đoạn trong dẫn lưu đường mật, bao gồm:

Giai đoạn I: Đánh giá và xem xét các dấu hiệu của bệnh nhân;

Giai đoạn II: Tiến hành dẫn lưu đường mật sớm;

Giai đoạn III: Một số trường hợp cần dẫn lưu mật khẩn cấp.

Hình thức dẫn lưu được khuyến cáo trong viêm đường mật tắc nghẽn là dẫn lưu nội soi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chỉ có thể thực hiện dẫn lưu đường mật qua da qua da nếu không thể thực hiện dẫn lưu đường mật nội soi.

Cuối cùng, điều trị phẫu thuật trong viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính có thể được chỉ định, nhưng sự lựa chọn phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh và một số yêu cầu bắt buộc của bệnh nhân.

Ở một số bệnh nhân bị viêm đường mật cấp tính do một khối u không thể cắt bỏ (ví dụ:, ung thư đầu tụy), một transjejunostomy có thể được thực hiện khi bệnh nhân không có triệu chứng.

4. Biến chứng của viêm đường mật cấp tính

Ở bệnh nhân, nhiễm trùng đường mật nặng có thể dẫn đến các biến chứng như áp-xe gan, suy gan hoặc nhiễm trùng huyết;

Viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính nặng có thể gây sốc nhiễm trùng, tổn thương đa cơ quan như suy thận cấp, suy tim, rối loạn thần kinh, suy hô hấp, suy gan và rối loạn huyết học;

Bệnh nhân được điều trị dẫn lưu đường mật qua da hoặc nội soi có thể có các biến chứng như chảy máu qua da, chảy máu trong ổ bụng, nhiễm trùng thứ phát hoặc rò rỉ mật…

Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính là khoảng 10%. Một số yếu tố tiên lượng xấu ở bệnh nhân bao gồm:

Tuổi trên 50;

Giới tính nữ;

Hẹp đường mật do ung thư hoặc sau khi chụp mật tụy ngược dòng;

Các triệu chứng bao gồm hạ huyết áp, tổn thương đa cơ quan;

Tiền sử xơ gan hoặc bệnh viêm ruột;

Điều trị kháng sinh ban đầu kém hoặc không đáp ứng;

Số lượng bạch cầu khi nhập viện là trên 20000/mm3, tổng lượng bilirubin trên 880 μmol/L.

Viêm đường mật tắc nghẽn cấp tính và viêm túi mật là những cấp cứu y tế và phẫu thuật phổ biến. Bệnh hoàn toàn có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng nếu bệnh nhân không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Do đó, khi các triệu chứng của bệnh xuất hiện, bạn nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để khám và điều trị, để tránh các biến chứng nguy hiểm.