Hội chứng ống cổ tay: Ứng dụng chẩn đoán điện trong chẩn đoán

Hội chứng ống cổ tay là bệnh đơn dây thần kinh phổ biến nhất, tổn thương cục bộ đối với dây thần kinh giữa do chèn ép tại lối đi qua ống cổ tay. Bệnh ảnh hưởng lớn đến lao động và chất lượng cuộc sống, là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng nghỉ việc, thậm chí mất chức năng tay. Chẩn đoán sớm và chính xác là một yếu tố quan trọng trong điều trị và bảo tồn chức năng tay.

1. Hội chứng ống cổ tay là gì?

Hội chứng ống cổ tay (CTS), còn được gọi là hội chứng ống cổ tay, là một chấn thương thần kinh đơn lẻ thường gây ra bởi sự chèn ép của dây thần kinh giữa khi đi qua kênh. cổ tay. Các triệu chứng lâm sàng bao gồm dị cảm và tê ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa và 1/2 bên ngoài ngón đeo nhẫn, có thể sắc nhọn hoặc gai, các triệu chứng thường xảy ra vào ban đêm, tay cầm yếu và hạn chế độ bám, có thể gây teo cơ. Bệnh ảnh hưởng lớn đến lao động, chất lượng cuộc sống và là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây tình trạng nghỉ việc, thậm chí mất chức năng tay.

Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy 10% dân số mắc hội chứng ống cổ tay trong đời, tỷ lệ nữ/nam = 4/1 và hơn 50% bệnh nhân bị CTS hai bên. Theo đó, có nhiều nguyên nhân gây bệnh, có thể kể đến như: làm việc (nhiều cử động tay, rung động do rung, đặc biệt là gần đây phổ biến ở những người thường xuyên sử dụng chuột máy tính), do dịch bệnh. Điều trị viêm khớp cổ tay, thoát vị mô hoạt dịch khớp cổ tay, viêm – xơ hóa dây chằng cổ tay, chấn thương cổ tay. Hội chứng này cũng thường gặp ở một số bệnh viêm đa khớp do đái tháo đường, ngộ độc rượu mãn tính….

Ống cổ tay là khoảng trống giữa xương cổ tay và dây chằng bao quanh gân uốn cong của bàn tay. Đường hầm cổ tay được bao phủ phía trên bởi dây chằng cổ tay (fascia giữ gân uốn) và các bức tường xung quanh là cạnh của xương cổ tay. Đoạn của ống cổ tay, dây thần kinh giữa đi cùng với gân uốn cong của các ngón tay trong ống cổ tay, vì nó nằm trong cấu trúc không đàn hồi, vì vậy khi có sự gia tăng thể tích (gân uốn cong bị viêm hoặc uốn cong cổ tay quá mức và thường xuyên và tư thế kéo dài, v.v.), dây thần kinh giữa dễ bị nén, Các mạch máu nhỏ đi gần dây thần kinh cũng bị nén, gây phì đại. Sau khi đi qua ống cổ tay, dây thần kinh giữa tách thành các nhánh kiểm soát chuyển động của giun 1 &; 2, fascia ngắn của ngón tay cái, uốn cong ngắn của ngón tay cái (bó bề ngoài) và cơ đối diện ngón tay cái, các nhánh bẩm sinh Chuyển động này có thể tách ra trong ống cổ tay và đi qua dây chằng cổ tay (màng giữ gân uốn). Trong đoạn lòng bàn tay, dây thần kinh giữa tách thành các nhánh cung cấp cảm giác cho các ngón tay 1, 2, 3 và 12 của ngón chân thứ 4, 2, 3 và 3, và nửa bên của ngón tay thứ 2 và thứ 3.

2. Chẩn đoán hội chứng ống cổ tay

Chẩn đoán hội chứng ống cổ tay cần dựa trên các đặc điểm lâm sàng (dịch tễ học, nghề nghiệp, bệnh nền, triệu chứng lâm sàng…). Tuy nhiên, hội chứng ống cổ tay là một bệnh liên quan đến dây thần kinh giữa khu trú, vì vậy rất dễ nhầm lẫn và cần được phân biệt với các rối loạn thần kinh trung ương khác. Một số bệnh thần kinh ngoại biên và nhiều bệnh thần kinh trung ương có các triệu chứng lâm sàng tương tự như hội chứng ống cổ tay. Trên lâm sàng, việc chẩn đoán hội chứng ống cổ tay và chẩn đoán phân biệt khá khó khăn khi các triệu chứng không điển hình, bệnh nhân có tổn thương hỗn hợp hoặc ở giai đoạn nhẹ. Các tổn thương dây thần kinh ngoại biên cần được chẩn đoán phân biệt với hội chứng ống cổ tay bao gồm: bệnh thần kinh trung bình ở vùng khuỷu tay, bệnh đám rối cánh tay và bệnh phóng xạ cổ tử cung.

Các rối loạn cảm giác phổ biến nhất có thể bị nhầm lẫn với hội chứng ống cổ tay là bệnh phóng xạ cổ tử cung, đặc biệt là tổn thương rễ C6-C7 có thể gây đau ở cả hai tay và rối loạn cảm giác giống như đặc trưng của hội chứng ống cổ tay. Các dấu hiệu lâm sàng gợi ý bệnh phóng xạ cổ tử cung là đau cổ, lan ra vai và cánh tay, và xấu đi khi cử động cổ. Khi đó, khám lâm sàng gợi ý bệnh phóng xạ là những bất thường ở mức C6-C7: phản xạ gân bất thường (bắp tay, còng quay, cơ tam đầu), giảm sức mạnh cơ gần (đặc biệt là uốn cong, duỗi và lồi cẳng tay) và rối loạn cảm giác lòng bàn tay hoặc cẳng tay vượt quá sự phân bố cảm giác của rối loạn cảm giác trong hội chứng ống cổ tay.

Bệnh thần kinh trung gian khuỷu tay và bệnh đám rối cánh tay ít gặp hơn hội chứng ống cổ tay, nhưng thường gây nhầm lẫn về mặt lâm sàng. Gợi ý quan trọng nhất là kiểm tra thể chất cho thấy các dấu hiệu tổn thương cơ sở của dây thần kinh giữa: rối loạn cảm giác ở tay và tê liệt các cơ được bẩm sinh bởi dây thần kinh giữa gần cổ tay, đặc biệt là ở cổ tay. uốn cong ngón tay cái, cẳng tay, cổ tay gấp. Trong chấn thương đám rối cánh tay, kiểm tra thần kinh có thể cho thấy những bất thường tương tự như trong bệnh phóng xạ cổ tử cung, và tê liệt và mất cảm giác có thể vượt ra ngoài sự phân bố của một đoạn tủy sống.

Có nhiều phương pháp cận lâm sàng hỗ trợ chẩn đoán hội chứng ống cổ tay như siêu âm dây thần kinh giữa cổ tay, MRI cổ tay. Tuy nhiên, phương pháp chẩn đoán hình ảnh chỉ giúp chẩn đoán khi có tổn thương vật lý đối với dây thần kinh giữa và các mô xung quanh.

3. Phương pháp chẩn đoán điện hội chứng ống cổ tay

Phương pháp chẩn đoán điện (điện cơ) giúp phát hiện những bất thường của dẫn truyền thần kinh giữa qua ống cổ tay ngay cả khi không có tổn thương vật lý, thậm chí phát hiện bất thường ngay cả khi bệnh nhân không có mặt. triệu chứng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng kết quả chẩn đoán điện là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán hội chứng ống cổ tay.

Việc điều tra điện chẩn đoán của một bệnh nhân nghi ngờ mắc hội chứng ống cổ tay được hướng tới các mục đích sau:

Chứng minh sự dẫn truyền chậm hoặc bị chặn của các sợi thần kinh giữa qua ống cổ tay.

Loại trừ bệnh thần kinh giữa khuỷu tay.

Loại trừ bệnh đám rối cánh tay, chủ yếu ảnh hưởng đến các sợi của dây thần kinh giữa.

Loại trừ bệnh phóng xạ cổ tử cung, đặc biệt là C6 – C7.

Nếu bệnh nhân bị bệnh đa dây thần kinh đi kèm, cần chứng minh rằng có sự chậm dẫn truyền thần kinh trung bình ở cổ tay vượt quá độ trễ dự kiến từ bệnh đa dây thần kinh bị cô lập.

Để làm được điều đó, việc khảo sát chẩn đoán điện cần được thực hiện một cách đầy đủ và bài bản. Sinh lý bệnh của hội chứng ống cổ tay thường là một tổn thương demyelinating, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng, có thể đi kèm với tổn thương sợi trục thứ phát.

Phương pháp chẩn đoán điện (điện cơ) giúp phát hiện những bất thường của dẫn truyền thần kinh giữa qua ống cổ tay ngay cả khi không có tổn thương vật lý, thậm chí phát hiện bất thường ngay cả khi bệnh nhân không có mặt. triệu chứng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng kết quả chẩn đoán điện là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán hội chứng ống cổ tay.

Việc điều tra điện chẩn đoán của một bệnh nhân nghi ngờ mắc hội chứng ống cổ tay được hướng tới các mục đích sau:

Chứng minh sự dẫn truyền chậm hoặc bị chặn của các sợi thần kinh giữa qua ống cổ tay.

Loại trừ bệnh thần kinh giữa khuỷu tay.

Loại trừ bệnh đám rối cánh tay, chủ yếu ảnh hưởng đến các sợi của dây thần kinh giữa.

Loại trừ bệnh phóng xạ cổ tử cung, đặc biệt là C6 – C7.

Nếu bệnh nhân bị bệnh đa dây thần kinh đi kèm, cần chứng minh rằng có sự chậm dẫn truyền thần kinh trung bình ở cổ tay vượt quá độ trễ dự kiến từ bệnh đa dây thần kinh bị cô lập.

Để làm được điều đó, việc khảo sát chẩn đoán điện cần được thực hiện một cách đầy đủ và bài bản. Sinh lý bệnh của hội chứng ống cổ tay thường là một tổn thương demyelinating, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng, có thể đi kèm với tổn thương sợi trục thứ phát.

Do đó, bất kỳ sự chậm trễ dẫn truyền nào của dây thần kinh giữa so với dây thần kinh trụ có thể là do sự chậm trễ trong việc dẫn truyền qua ống cổ tay. Khả năng chẩn đoán tăng từ khoảng 75% bằng cách sử dụng các xét nghiệm cảm giác và vận động thông thường lên khoảng 95% bằng cách sử dụng các kỹ thuật nhạy cảm này.

Điện cơ đồ rất quan trọng trong việc phát hiện tổn thương sợi trục thứ phát. Phát hiện tổn thương sợi trục thứ phát giúp các bác sĩ lâm sàng dự đoán và quyết định các can thiệp tích cực hơn so với liệu pháp y tế và phương pháp bảo tồn.

Hội chứng ống cổ tay là một bệnh tổn thương cục bộ đối với dây thần kinh giữ ống cổ tay. Đây là một bệnh phổ biến và dễ bị chẩn đoán nhầm với các tổn thương thần kinh trung bình khác như: bệnh phóng xạ cổ tử cung, bệnh đám rối. cánh tay, tổn thương thần kinh ở giữa khuỷu tay. Một số bệnh đa dây thần kinh và rối loạn thần kinh trung ương cũng có các triệu chứng dễ nhầm lẫn với hội chứng ống cổ tay. Chẩn đoán điện là một phương pháp để thăm dò chức năng dẫn truyền thần kinh giữa, kết quả có giá trị như một tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán hội chứng ống cổ tay. Tuy nhiên, kỹ thuật này cần được thực hiện một cách đầy đủ và có phương pháp, để phát hiện sự chậm dẫn truyền thần kinh trung bình ngay cả khi các triệu chứng không điển hình.

Khi có các triệu chứng gợi ý hội chứng ống cổ tay, như: đau lan ra từ cổ tay và cánh tay với rối loạn cảm giác ở tay, cảm giác đau lan tỏa, hiếm khi khu trú bao gồm toàn bộ bàn tay cánh tay, rối loạn cảm giác (ghim và kim, đau rát, tê…) thường xuất hiện ở vùng phân bố của dây thần kinh giữa (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn ngoài), triệu chứng Các triệu chứng tăng lên khi cử động cổ tay. Bạn cần có một cuộc khảo sát chẩn đoán điện với bác sĩ thần kinh, để có được chẩn đoán sớm và chính xác về hội chứng ống cổ tay, đồng thời dự đoán và quyết định phương pháp điều trị tối ưu cho từng cấp độ.

Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn https://bacsiviemgan.com