Bệnh viêm gan E có nguy hiểm không?

Mặc dù viêm gan E không phải là một loại viêm gan phổ biến như viêm gan B và C, nhưng mức độ cũng rất nguy hiểm nếu bệnh nhân mắc bệnh này. Bởi vì nó không phổ biến, khái niệm về căn bệnh này vẫn còn rất mới, bài viết sau đây muốn đề cập đến một số vấn đề đáng chú ý của bệnh lý này.

Viêm gan E có lây không?

Con đường lây nhiễm của viêm gan E chủ yếu qua đường tiêu hóa (đường phân-miệng), bởi con người ăn thực phẩm và nước uống bị nhiễm virus này. Một số cách lây truyền virus khác là: lây truyền qua máu bị nhiễm bệnh hoặc từ mẹ sang con trong khi mang thai. Tuy nhiên, đây là một trường hợp rất hiếm gặp và hầu như không gặp phải.

Thông thường viêm gan E có liên quan đến các đợt bùng phát lớn, xảy ra cứ sau 5 đến 10 năm và có thể liên quan đến lũ lụt. Tình trạng này khiến nguồn nước bị ô nhiễm, và thực phẩm từ đó cũng sẽ bị ô nhiễm. Trong quá trình chế biến thực phẩm, con người không đảm bảo vệ sinh, vì vậy virus viêm gan E tấn công cơ thể và gây ra căn bệnh này.

Do đó, trong mọi tình huống, chúng ta phải chú ý đến thực phẩm nấu chín, uống nước sôi, đảm bảo vệ sinh, tránh thực phẩm và nguồn nước bị ô nhiễm, và cần phải được xử lý nếu nguồn nước bị nghi ngờ bị ô nhiễm. Bị nhiễm.

Viêm gan E có nguy hiểm không?

Theo thống kê, khả năng mắc bệnh khi bị nhiễm virus viêm gan E chỉ chiếm 1-10%, 90% còn lại có thể tự khỏi và không cần điều trị nếu cơ thể có sức đề kháng tốt. Tuy nhiên, nếu dưới một số ảnh hưởng nhất định, một khi bệnh đã phát triển, nó trở thành một căn bệnh ác tính, đe dọa tính mạng của bệnh nhân.

Vì vậy, để trả lời câu hỏi liệu viêm gan E có nguy hiểm hay không, câu trả lời là có. Virus viêm gan E có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng, chúng sẽ tạo ra các chất làm tổn thương tế bào gan, dẫn đến các bệnh gan khác như xơ gan, suy gan, thậm chí ung thư gan.

Viêm gan E cấp tính

Ở giai đoạn này, bệnh nhân có các triệu chứng sốt, mệt mỏi, đau cơ và khớp, chán ăn, buồn nôn hoặc nôn. Một số ít có triệu chứng vàng da, nước tiểu sẫm màu, phân đổi màu, ngứa da… Nhưng thường tự giải quyết. Tuy nhiên, một vài trường hợp có thể tiến triển thành suy gan nặng, tỷ lệ tử vong trong các đợt bùng phát dao động từ 1-3%. Ngoài ra, bệnh sẽ rất nguy hiểm cho phụ nữ mang thai, tỷ lệ tử vong lên tới 10-30%.

Viêm gan E có khả năng kết tủa suy gan ở những người mắc bệnh gan mãn tính từ trước hoặc ở những người nhận cấy ghép được điều trị ức chế miễn dịch, gây ra bệnh gan mất bù hoặc tử vong.

Viêm gan E mãn tính

Cho đến nay, vẫn chưa có thông tin chính thức về sự tiến triển của viêm gan E cấp tính sang viêm gan E mãn tính. Tuy nhiên, nếu một bệnh nhân bị nhiễm virus viêm gan E loại 3, nó có thể tiến triển thành viêm gan E mãn tính. Các trường hợp viêm gan E mãn tính đã loại bỏ virus miễn là họ vẫn bị nhiễm bệnh và chủ yếu được báo cáo ở những bệnh nhân cấy ghép nội tạng rắn cần điều trị ức chế miễn dịch.

Do đó, nếu phát hiện bị viêm gan E, người bệnh cần đến ngay các cơ sở y tế để khám và kiểm soát bệnh, tránh các biến chứng nguy hiểm.

Viêm gan E khác với viêm gan B như thế nào?

Đường lây truyền: Viêm gan E là bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa, virus viêm gan E sống trong phân, rác, nước thải bẩn qua thực phẩm (rau không hợp vệ sinh) vào cơ thể con người. Không giống như viêm gan E, viêm gan B lây truyền qua máu (quan hệ tình dục, từ mẹ sang con, tiếp xúc với dịch tiết của người bị nhiễm bệnh).

Tiến triển của viêm gan E: Bệnh phát triển cấp tính gây vàng da, mệt mỏi, chán ăn, tiêu chảy,… Sau 7-10 ngày, bệnh thường tự khỏi, không trở thành bệnh mãn tính nên không gây nguy hiểm. Ngược lại, viêm gan B là một bệnh mãn tính có thể gây ra các biến chứng như xơ gan, ung thư gan và thuốc chỉ có thể được sử dụng để giảm độc tố của virus. Không thể chữa khỏi bệnh. Bệnh thường không có triệu chứng khi bệnh nhân khỏe mạnh, khi có yếu tố thuận lợi sẽ có những biểu hiện điển hình của bệnh gan như trong viêm gan E.

Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ nhiễm viêm gan E cao do vệ sinh thực phẩm và nước uống kém. Để phòng ngừa căn bệnh này, cần đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và nguồn nước tốt, thực hành ăn chín uống, rửa tay trước khi ăn, quản lý phân tốt, không gây ô nhiễm nguồn nước; kiểm soát các sinh vật trung gian gây bụi bẩn như gián, chuột, ruồi…

Hiện nay, chưa có vắc-xin phòng ngừa viêm gan E. Người nhiễm bệnh cũng không có khả năng miễn dịch lâu dài với bệnh, vì vậy vẫn có nguy cơ tái phát nếu họ ăn thức ăn và đồ uống bị nhiễm virus viêm gan E.