Viêm ống kẽ thận cấp tính chủ yếu gây hoại tử nội bào ở ống thận, đây là một trong những bệnh rất nghiêm trọng gây tử vong cao.
1. Viêm ống kẽ thận cấp là gì?
Viêm ống kẽ thận cấp là một rối loạn phổ biến ảnh hưởng đến khu vực xung quanh thận và gây viêm thận dẫn đến suy thận cấp tính, còn được gọi là hoại tử ống thận cấp tính. Thiệt hại chính của bệnh này là hoại tử nội bào ở ống thận, đây là một căn bệnh nghiêm trọng mà nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ tử vong cho bệnh nhân.
2. Nguyên nhân gây viêm ống kẽ thận cấp
Các ống thận kết nối cầu thận đóng một vai trò trong việc tái hấp thu và tiết ra một số chất để chuyển đổi dịch lọc cầu thận thành nước tiểu. Các ống thận bao gồm ống gần và ống thu thập. Do đó, có nhiều nguyên nhân dẫn đến viêm thận ống thận cấp tính, nhưng chủ yếu là do ba nhóm lớn như sau:
Do thiếu máu: Nguyên nhân là do thiếu máu sẽ làm cho tưới máu thận giảm trong thời gian dài, dẫn đến thiếu máu nặng và gây hoại tử ống thận. Các nguyên nhân chính của thiếu máu là sau phẫu thuật, chấn thương, độc tính, phá thai và tác dụng phụ của thuốc.
Do ngộ độc: Nó có thể trực tiếp trên các tế bào ống thận hoặc gián tiếp trên cơ chế mạch máu và do đó gây thiếu máu cục bộ thận. Nguyên nhân phổ biến của độc tính có thể là kháng sinh, hóa chất, rượu và thực phẩm hàng ngày.
Dị ứng: Viêm thận kẽ cấp tính dị ứng là do một số loại thuốc thông thường như thuốc lợi tiểu, thuốc chống viêm gây ra.
3. Dấu hiệu nhận biết viêm ống kẽ thận cấp
Viêm ống kẽ thận cấp là biểu hiện của hội chứng suy thận cấp đôi khi kèm theo viêm gan cấp tính. Thông thường viêm ống kẽ thận cấp được phát hiện ở những bệnh nhân có các triệu chứng như:
Thiểu niệu, vô niệu, đôi khi được phát hiện như một biến chứng nghiêm trọng như giữ nước ngoại bào hoặc rối loạn điện giải khác hoặc thiết lập hội chứng urê huyết.
Sau đó, bệnh nhân có dấu hiệu tăng cân, phù nề, khó thở khi làm công việc vất vả;
Tiếp theo là các dấu hiệu rối loạn tiêu hóa, ngoài ra còn có các đốm chảy máu dưới da. Nếu bệnh nhân không được phát hiện sớm, nó có thể tiến triển đến giai đoạn thiểu niệu hoặc vô niệu thực sự, thời gian thay đổi từ 1 đến 3 tuần đến giai đoạn đa niệu, ở giai đoạn này, bệnh thường xuất hiện khoảng một tuần. thứ ba của vô niệu và bệnh nhân có thể thấy lượng nước tiểu tăng lên rõ rệt. Trong giai đoạn này, bệnh nhân đôi khi cần lọc máu, nhưng quan trọng hơn, để thay thế chất lỏng và chất điện giải bị mất.
4. Biến chứng của viêm ống kẽ thận cấp
Bệnh tiến triển qua các giai đoạn trên. Trong quá trình này, nó có thể gây ra các biến chứng như:
Phù não gây co giật;
Phù phổi; trụy tim mạch.
Nhiều trường hợp có biến chứng tại vị trí ống thận. Các tổn thương của ống thận hoàn toàn khác nhau giữa các phân đoạn của ống thận. Đối với các biến chứng nhẹ với interstitium hình ống cấp tính phẳng và giãn. Và gây hoại tử tế bào ống thận, các tế bào hình ống mất nguyên sinh chất và nhân. Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể có hoại tử của mỗi đoạn ống thận và vỡ của mỗi đoạn ống thận.
5. Chẩn đoán và điều trị viêm ống kẽ thận cấp
Chẩn đoán xác định dựa trên khám lâm sàng và xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, để phân biệt suy thận cấp do viêm thận ống thận cấp tính là suy thận cấp với suy thận cấp chức năng do nhiều nguyên nhân khác. Ngoài ra, các xét nghiệm khác cũng được các bác sĩ chỉ định để phân biệt viêm thận ống thận cấp tính với các bệnh khác như viêm cầu thận cấp tính, sỏi tắc nghẽn niệu quản.
Về điều trị, bao gồm điều trị các triệu chứng, biến chứng của viêm thận ống cấp tính và điều trị nguyên nhân. Nếu được điều trị sớm và chính xác, sự tiến triển của bệnh là dương tính. Lọc máu ngoài thận sẽ giúp giảm tỷ lệ tử vong.
Nếu bệnh đã tiến triển tốt, bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn và không để lại di chứng. Tuy nhiên, chức năng thận mất hơn một tháng để phục hồi.
Viêm thận do tubulointerstitial cấp tính là một căn bệnh nguy hiểm, vì vậy khi bị viêm thận ống dẫn trứng cấp tính, bạn cần được kiểm tra lại theo lịch trình để theo dõi diễn biến của bệnh và sức khỏe. Theo đó, người bệnh cũng cần thực hiện theo hướng dẫn của bác sĩ, sử dụng thuốc theo chỉ định, không tự ý mua thuốc không có trong đơn thuốc để mang về nhà. Với chế độ ăn uống, bệnh nhân cần cố gắng ăn nhiều hơn để uống thuốc, ăn thức ăn lỏng, bệnh nhân ăn ít protein, hạn chế muối và uống ít nước hơn người bình thường.