Viêm gan virus: Nguyên nhân và triệu chứng

Viêm gan virus là một bệnh do virus gây ra và dễ lây lan. Hầu hết những người mắc bệnh chỉ phát hiện ra khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn nặng vì trong giai đoạn đầu của viêm gan, không có triệu chứng rõ ràng. Có 6 loại virus gây viêm gan: A, B, C, D, E, G. Mỗi loại có đặc tính và khả năng gây bệnh khác nhau, vì vậy các triệu chứng và phương pháp điều trị cũng khá đa dạng.

Viêm gan virus là gì?

Viêm gan siêu vi là tình trạng gan bị xâm lấn và tấn công bởi virus, khiến các tế bào gan bị viêm và tổn thương. Viêm gan siêu vi có thể phá vỡ quá trình giải độc gan, lưu trữ vitamin và sản xuất hormone. Biến chứng của viêm gan là suy gan, xơ gan, ung thư gan…

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân chính của viêm gan virus là tiếp xúc với máu của bệnh nhân trong một vết thương hở, truyền máu có chứa virus viêm gan. Nó được truyền từ mẹ sang con, do quan hệ tình dục không an toàn với người bị nhiễm bệnh. Do dùng chung kim tiêm, hình xăm, xỏ lỗ tai, dụng cụ làm móng tay và móng chân. Và bằng cách ăn thực phẩm và nước bị ô nhiễm.

Triệu chứng bệnh

Triệu chứng của viêm gan virus

Thời gian ủ bệnh: Không có triệu chứng lâm sàng. Thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào loại virus viêm gan, dao động từ 15 đến 180 ngày.

Giai đoạn khởi phát: Bệnh nhân bị sốt, đau ở góc phần tư dưới bên phải, mệt mỏi và không muốn đi lại, nước tiểu màu vàng sẫm.

Thời gian toàn thổi: vàng da, ngứa da, gan to, lá lách mở rộng, chán ăn, mệt mỏi, đau, rối loạn tiêu hóa, phân đổi màu, nước tiểu ít hơn và sẫm màu như nước đặc. Các xét nghiệm sẽ cho thấy men gan tăng cao, transaminase tăng cao, tổng lượng máu Bilirubin tăng cao…

Thời gian phục hồi: Các triệu chứng giảm dần, bắt đầu với hiện tượng đa niệu (lượng nước tiểu tăng nhiều, bệnh nhân đi tiểu thường xuyên hơn), nước tiểu tăng dần. Gan và lá lách dần trở lại bình thường, cơn đau giảm nên bệnh nhân ngủ ngon hơn. Chấm dứt đau khớp. Các thông số trong phòng thí nghiệm dần trở lại bình thường.

Các loại viêm gan virus

Viêm gan A

Từ năm 1973, virus viêm gan A đã được phát hiện, virus này được truyền qua thực phẩm và nước bị ô nhiễm bởi thực phẩm và nước bị ô nhiễm. Hiện tại có một loại vắc-xin để ngăn ngừa viêm gan A. Viêm gan A là lành tính, không trở thành mãn tính và có thể được chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có thể bị tái nhiễm.

Viêm gan B               

Virus viêm gan B có cấu trúc rất nhỏ, khi bị nhiễm virus này, gan của bệnh nhân sẽ sưng lên, có thể gây tổn thương nghiêm trọng. Viêm gan B trở thành mãn tính dẫn đến các biến chứng như sẹo gan, xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan. 20 năm trước, đã có một loại vắc-xin để ngăn ngừa căn bệnh này, với hiệu quả phòng ngừa lên tới 95%. Cho đến nay, không có cách nào để chữa khỏi viêm gan B hoàn toàn.

Viêm gan C

Virus viêm gan C đã được tìm thấy từ năm 1989 với sự đa dạng di truyền, nhưng cho đến nay vẫn chưa có vắc-xin để ngăn ngừa căn bệnh này vì không có hệ thống nuôi cấy tế bào phù hợp và sự đa dạng của kiểu gen. Ngay cả sau khi được chữa khỏi, cơ thể vẫn có thể bị tái nhiễm viêm gan C. Và có tới 80% những người mắc bệnh bị viêm gan C mãn tính.

Viêm gan D

Đây là một loại virus không hoàn chỉnh (chỉ có hạt nhân không có phong bì) được phát hiện vào năm 1977. Do đó, nó không thể gây bệnh một cách độc lập, mà phải đồng nhiễm hoặc siêu lây nhiễm với viêm gan B để có khả năng gây bệnh. Hiện đã có vắc-xin chống viêm gan D.

Viêm gan E

Khóa học lành tính, được chữa khỏi hoàn toàn và không bị tái nhiễm. Nếu một phụ nữ mang thai bị nhiễm viêm gan E, có nguy cơ cao phát triển viêm gan nặng và tỷ lệ tử vong cao. Virus viêm gan E được tìm thấy vào năm 1991, cho đến nay vẫn chưa có vắc-xin ở nước ta.

Viêm gan G

25% các thành phần của viêm gan G tương tự như viêm gan C, nhưng vai trò của bệnh là không rõ ràng. Hơn 70% những người mắc bệnh này không có triệu chứng lâm sàng.