Khi nào suy thận cấp xảy ra?

Suy thận cấp là bệnh nguy hiểm, có nhiều nguyên nhân gây suy thận cấp, các nguyên nhân này được chia thành: Nhóm nguyên nhân gây suy thận cấp tiền thận, nhóm nguyên nhân gây suy thận và nhóm nguyên nhân gây suy thận. suy sau thận.

1. Suy thận cấp là gì?

Suy thận cấp là căn bệnh nguy hiểm có nguy cơ tử vong cao. Bệnh có thể xảy ra từ nhiều nguyên nhân khác nhau, gây ra sự dừng lại hoặc suy giảm nhanh chóng tốc độ lọc cầu thận, do đó gây mất chức năng tạm thời, cấp tính ở cả hai bên thận. Các biểu hiện lâm sàng của suy thận cấp là:

Tiểu niệu cấp tính hoặc vô niệu xảy ra

Tỷ lệ creatinine huyết thanh > 42,5 μmol trong vòng 24-48 giờ so với creatinine huyết thanh ban đầu nếu creatinine cơ bản của bệnh nhân < 221 μmol/l. Nếu creatinine cơ bản của bệnh nhân > 221 μmol / l, suy thận cấp được chẩn đoán khi tốc độ tăng creatinine huyết thanh > 20% trong 24-48 giờ.

Sau vô niệu, tốc độ lọc cầu thận giảm xuống còn <60 ml / phút

Kali máu thường tăng cao, có thể có nhiễm toan chuyển hóa

Sự tiến triển của suy thận cấp lần lượt theo 4 giai đoạn: giai đoạn tấn công của mầm bệnh, giai đoạn thiểu niệu, giai đoạn vô niệu, giai đoạn trở lại nước tiểu và giai đoạn phục hồi chức năng.

2. Nguyên nhân gây suy thận cấp

Dựa trên cơ chế bệnh sinh, nguyên nhân gây suy thận cấp có thể được chia thành 3 nhóm chính:

2.1 Nhóm nguyên nhân gây suy thận cấp trước thận

Nguyên nhân gây suy thận cấp tiền thận bao gồm tất cả các nguyên nhân làm giảm lưu lượng máu đến thận như mất nước, mất máu gây sốc giảm thể tích, sốc tim, sốc nhiễm khuẩn, sốc phản vệ,… Nguyên nhân gây giảm thể tích tuần hoàn khác như xơ gan mất bù, phì đại và giảm áp lực ung thư trong hội chứng thận hư.

2.2 Nhóm nguyên nhân gây suy thận ở thận

Suy thận do tổn thương vật lý cho thận, bao gồm:

Bệnh thận:

Viêm mạch cầu thận trong các bệnh: Tăng huyết áp ác tính, viêm mạch, viêm mạch Wegener, hội chứng urê huyết tán huyết, đông máu nội mạch lan tỏa, nhiễm độc thai kỳ, bệnh mạch máu hệ thống, xơ cứng bì,…

Bệnh màng đáy chống cầu thận như hội chứng Goodpasture

Tổn thương cầu thận do thuốc có tác dụng phụ độc hại trên thận như Amphotericin B, Cyclosporin, Cisplatin,…

Bệnh ống thận: Nguyên nhân phổ biến nhất gây suy thận cấp. Có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh ống thận như:

Hoại tử thận do thiếu máu. Thiếu máu thường do suy tiền thận nặng, kéo dài.

Suy thận cấp thứ phát do nhiễm trùng nặng không được điều trị kịp thời, tổn thương thiếu máu cục bộ ở thận do giảm lưu lượng máu đến thận và mất khả năng tự điều chỉnh.

Tắc nghẽn ống thận do các sản phẩm phân hủy tế bào như myoglobulin niệu, hemoglobulin, u tủy, tinh thể urat, oxalat

Độc tính trên thận do thuốc: Nhiều thuốc có tác dụng phụ gây tổn thương ống thận như kháng sinh aminoside, một số kháng sinh cephalosporin, thuốc chống nấm amphotericin B, thuốc cản quang iốt, hóa chất điều trị cisplatin… .

Bệnh kẽ thận:

Viêm thận kẽ có thể do vi khuẩn Stresptococcus, phế cầu khuẩn gây ra,… virus như EBV, CMV,… nấm, Mycoplasma.

Một số loại thuốc có thể gây viêm thận kẽ, như: Thuốc kháng sinh (quinolone, cephalosporin, vancomycin, rifampicin, penicillin,…), thuốc lợi tiểu furosemide, thiazide, thuốc giảm đau chống viêm không steroid (diclofenac, meloxicam). , ibuprofen,…), thuốc ức chế men chuyển điều trị cao huyết áp, thuốc điều trị bệnh gút Allopurinol,…

2.3 Nhóm nguyên nhân gây suy thận sau thận

Suy thận sau thận xảy ra khi đường tiết niệu của thận bị chặn. Sỏi đường tiết niệu, nhú thận hoại tử, cục máu đông, khối u, xơ hóa phúc mạc thành sau,… gây tắc nghẽn đường tiết niệu cao. Trong khi hội chứng bàng quang thần kinh, tắc cổ bàng quang, tắc nghẽn niệu đạo gây tắc nghẽn đường tiết niệu dưới.

3. Điều trị suy thận cấp

Các nguyên tắc điều trị

Nguyên tắc chung trong điều trị suy thận cấp là xác định nguyên nhân gây suy thận ở bất kỳ nhóm nào (tiền thận, suy thận hoặc thận) và sau đó tìm cách loại bỏ nguyên nhân càng nhanh càng tốt. Cùng với đó là điều chỉnh rối loạn tuần hoàn, phục hồi thể tích máu, duy trì huyết áp tâm thu ổn định ở mức 100-120mmHg. Điều chỉnh rối loạn cân bằng nội môi, phục hồi lưu lượng nước tiểu và xử trí khẩn cấp các triệu chứng có khả năng đe dọa tính mạng như tăng kali máu, phù não co giật, phù phổi cấp, nhiễm toan chuyển hóa nặng. Khi cần thiết, lọc máu có thể được chỉ định.

Điều trị cụ thể theo giai đoạn bệnh

3.1 Giai đoạn tác nhân bệnh tấn công

Giai đoạn này diễn ra trong 24 giờ đầu, bệnh nhân có triệu chứng mệt mỏi, khó thở, đau ngực, buồn nôn, giảm lượng nước tiểu hoặc vô niệu, ngoài ra, bệnh nhân còn có triệu chứng của các nguyên nhân gây suy thận khác. chẳng hạn như nhiễm trùng, ngộ độc, mất nước.

Giai đoạn này, nếu được điều trị đúng cách và kịp thời, có thể ngăn ngừa bệnh tiến triển sang giai đoạn tiếp theo. Điều trị ở giai đoạn này tập trung vào việc cố gắng loại bỏ nguyên nhân gây bệnh, bù nước khi bị mất nước, rửa dạ dày nếu ngộ độc xảy ra, loại bỏ tắc nghẽn đường tiết niệu, v.v. Theo dõi chặt chẽ tình trạng. thiểu niệu, vô niệu của bệnh nhân.

3.2 Giai đoạn thiểu niệu và vô niệu

Bệnh toàn diện với các triệu chứng và biến chứng nghiêm trọng. Bệnh nhân bị thiểu niệu, vô niệu, phù. Ở một số bệnh nhân, thiểu niệu xuất hiện rất nhanh, với các triệu chứng dư thừa dịch như suy tim sung huyết, phù phổi. Urê, creatinine máu tăng nhanh, rối loạn điện giải, kali máu tăng. Nhiễm toan chuyển hóa, pH, HCO3 giảm, anion có khoảng trống. Bệnh nhân thở sâu, giãn mạch, hạ huyết áp.

3.3 Giai đoạn phục hồi chức năng

Thời gian phục hồi phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh, trung bình khoảng 4 tuần. Khi urê máu của bệnh nhân đã trở lại bình thường, chế độ ăn uống cần tăng protein. Bệnh nhân suy thận cấp được kiểm tra lại định kỳ dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.

4. Phòng ngừa suy thận cấp

Để phòng ngừa suy thận cấp và các biến chứng nguy hiểm của bệnh, người dân cần khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ, từ đó phòng ngừa và điều trị sớm.

Sử dụng thuốc theo đúng hướng dẫn của nhân viên y tế để tránh tác dụng độc hại lên thận của một số thuốc. Điều trị tốt một số bệnh có thể ảnh hưởng đến thận như huyết áp cao, tiểu đường, suy tim mạn tính, ung thư tuyến tiền liệt,…

Ở những bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ như: tiểu không tự chủ, bệnh thận có sẵn, suy tim…, trước khi phẫu thuật, bác sĩ cần phòng ngừa suy thận cấp cho bệnh nhân, trong quá trình phẫu thuật. Phẫu thuật đòi hỏi phải thay thế chất lỏng đầy đủ để đảm bảo huyết áp.