Thoái hóa khớp gối là bệnh thường gặp, tần suất bệnh tăng dần theo tuổi tác do khớp gối là khớp chịu lực toàn bộ cơ thể và cũng là khớp hoạt động nhiều nhất. Vậy hiện nay có những phương pháp nào điều trị thoái hóa khớp gối, biện pháp nào hiệu quả nhất, hãy cùng tìm hiểu nhé.
Thoái hóa khớp gối là tình trạng sụn khớp bị bào mòn, biến dạng, mất tính đàn hồi hoặc bị rách khiến các đầu xương trong khớp va chạm, cọ xát gây ra các triệu chứng như sưng, đau, cứng khớp, hạn chế khả năng hoạt động. tính cơ động.
Nếu bệnh ở giai đoạn đầu, chưa ảnh hưởng nhiều đến người bệnh thì có thể áp dụng các biện pháp điều trị nội khoa, vật lý trị liệu để làm giảm các triệu chứng. Tuy nhiên, khi bệnh chuyển sang giai đoạn nặng hơn, chức năng vận động của bệnh nhân bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cần phải can thiệp bằng phương pháp ngoại khoa.
6 cách điều trị thoái hóa khớp gối
Các phương pháp ngoại khoa hiện đang được áp dụng để điều trị thoái hóa khớp gối bao gồm:
1. 6 phương pháp điều trị thoái hóa khớp gối
Các phương pháp ngoại khoa hiện đang được áp dụng để điều trị thoái hóa khớp gối bao gồm:
1.1. Phẫu thuật làm sạch nội soi
Phẫu thuật nội soi làm sạch khớp được áp dụng cho những bệnh nhân có triệu chứng đau, hạn chế vận động mà điều trị nội khoa có kết quả hạn chế. Phương pháp này không áp dụng cho bệnh nhân thoái hóa khớp gối giai đoạn 4, giai đoạn 2, 3 trên nền bệnh viêm khớp dạng thấp hoặc có các bệnh lý kèm theo chống chỉ định phẫu thuật.
1.2. Phẫu thuật nội soi tạo tổn thương dưới sụn
Phẫu thuật nội soi tạo tổn thương dưới sụn
Phẫu thuật kích thích tủy xương thông qua nội soi khớp gối này được chỉ định cho những bệnh nhân trẻ tuổi bị thoái hóa khớp gối thứ phát sau chấn thương, với một vùng khuyết sụn nhỏ hoặc trung bình. Hiện nay, phương pháp này được kết hợp với ghép tế bào gốc tự thân để điều trị thoái hóa khớp gối nguyên phát giai đoạn 2 hoặc 3 mang lại hiệu quả tốt hơn.
1.3. Ghép tế bào sụn tự thân
Ghép sụn tự thân được chỉ định cho bệnh nhân trẻ tuổi, sụn mới bị tổn thương do chấn thương, vị trí tổn thương biệt lập, vùng sụn bị khuyết ít hoặc trung bình. Ưu điểm của ghép sụn tự thân là lớp sụn mới có bản chất là sụn trong, có độ đàn hồi và độ bền cao, giống sụn bình thường. Tuy nhiên, bệnh nhân phải trải qua hai lần phẫu thuật, phải mở khớp gối, chi phí điều trị khá cao. Ngoài ra, sau ghép, mảnh ghép dễ bị bong ra khỏi vị trí ghép gây thất bại điều trị hoặc sau ghép xuất hiện hiện tượng mô sụn tăng sinh quá mức, trở thành vật cản cơ học, gây dính và hạn chế. chuyển động của khớp gối.
1.4. Ghép xương và sụn tự thân hoặc dị loại
Ghép xương và sụn tự thân hoặc dị loại
Ghép xương và sụn có ưu điểm là tạo được sự liền xương tại vị trí ghép (vì mảnh ghép là sụn liền xương), qua đó sụn ghép sẽ sống, bám chắc và đảm bảo chức năng của nó. Phương pháp này áp dụng cho các tổn thương sụn nhỏ (1-4 cm2), tổn thương đơn độc (thường gặp trong thoái hóa khớp gối thứ phát sau chấn thương).
Tuy nhiên, với phương pháp này, nếu bệnh nhân lựa chọn ghép sụn tự thân sẽ phải chịu tổn thương mới tại nơi lấy sụn, nếu ghép sụn đồng loại sẽ gặp phải tình trạng thải ghép. Bên cạnh đó, khi xương chưa lành, mảnh ghép có thể rơi vào ổ khớp, trở thành dị vật gây kẹt khớp.
1.5. Máy đục xương sửa chữa trục
Cắt xương trục thực chất là thay đổi trục cơ học của chân, thay đổi trọng tâm khớp gối, giảm áp lực lên bề mặt khớp bị thoái hóa, từ đó giúp người bệnh giảm đau và làm chậm quá trình thoái hóa. Phương pháp này thường được chỉ định cho các trường hợp thoái hóa khớp gối một ngăn giai đoạn đầu, thường gặp ở những bệnh nhân bị biến dạng bàn chân dạng vẹo trong hoặc vẹo ngoài. Tuy nhiên, phương pháp này có thể gây biến chứng nghiêm trọng như liệt dây thần kinh mác chung. Ngoài ra, về lâu dài, bệnh nhân phải thay khớp sẽ đối mặt với tình trạng trục chi bị biến dạng.
1.6. thay khớp gối
Thay khớp gối được áp dụng khi bệnh đã ở giai đoạn 3, 4, không thể điều trị bằng các phương pháp khác
Thay khớp gối được áp dụng khi bệnh đã ở giai đoạn 3, 4 và không thể điều trị bằng các phương pháp khác. Tuy nhiên, đây là đại phẫu, chi phí rất cao. Ngoài ra, tuổi thọ của khớp nhân tạo chỉ khoảng 10-15 năm nên bệnh nhân trẻ sẽ đối mặt với nguy cơ phải thay nhiều khớp. Vì vậy, với phương pháp này, bệnh nhân sẽ được bác sĩ chuyên khoa thăm khám và tư vấn kỹ lưỡng.