Bệnh máu khó đông có thể gây tàn tật và thậm chí tử vong sớm. Có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh máu khó đông, hầu hết trong số đó là do di truyền và một số ít là do đột biến gen khỏe mạnh gây bệnh.
1. Bệnh máu khó đông là gì?
Bệnh máu khó đông, còn được gọi là rối loạn đông máu di truyền, là một bệnh hiếm gặp khiến máu không đông lại bình thường. Thông thường, quá trình hình thành cục máu đông giúp ngăn ngừa nguy cơ chảy máu sau chấn thương. Nếu đông máu không xảy ra, vết thương có thể chảy máu nhiều.
Chảy máu do bệnh máu khó đông có thể xảy ra trong:
Bên ngoài: Trên bề mặt bên ngoài của cơ thể, nơi có thể nhìn thấy;
Bên trong: Bên trong cơ thể, ở những nơi không thể nhìn thấy như khớp gối, khớp hông, mắt cá chân, khuỷu tay,…
2. Nguyên nhân gây bệnh máu khó đông
Bệnh máu khó đông là một rối loạn di truyền do sự thay đổi gen được thừa hưởng từ cha mẹ của trẻ hoặc xảy ra trong quá trình phát triển trong tử cung. Bệnh thường ảnh hưởng đến bé trai với tỷ lệ 1/5.000 – 10.000 trẻ. Những bé gái mang gen bệnh hiếm khi có dấu hiệu của bệnh nhưng có thể truyền gen bệnh cho con.
Nguyên nhân gây bệnh máu khó đông là do cơ thể bệnh nhân không có đủ các yếu tố đông máu. Trong cơ thể có 13 yếu tố đông máu phối hợp với nhau để hình thành cục máu đông. Các yếu tố đông máu này được đưa ra các chữ số La Mã từ I đến XIII. Nếu cơ thể thiếu quá nhiều yếu tố VIII hoặc IX sẽ gây ra bệnh máu khó đông. Đặc biệt:
Có 3 loại bệnh máu khó đông tương ứng với loại yếu tố đông máu bị thiếu. Đó là:
Hemophilia A: Được tìm thấy ở 80% bệnh nhân bị rối loạn đông máu, do thiếu yếu tố đông máu VIII;
Hemophilia B: Do thiếu yếu tố đông máu IX;
Hemophilia C: Hiếm gặp, chỉ xảy ra ở 5% bệnh nhân hemophilia. Hemophilia C là một dạng bệnh nhẹ do thiếu yếu tố đông máu XI. Những người bị loại rối loạn đông máu này thường không chảy máu tự nhiên mà chỉ chảy máu sau chấn thương hoặc phẫu thuật.
Hemophilia A và B là do trẻ em nhận nhiễm sắc thể mang gen bệnh từ cha mẹ. Cha mẹ có nhiễm sắc thể X mang gen gây bệnh máu khó đông sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh của trẻ. Tuy nhiên, bệnh máu khó đông A và B phổ biến ở nam giới hơn phụ nữ. Hemophilia C là do khiếm khuyết di truyền, không liên quan đến nhiễm sắc thể giới tính, vì vậy nó ảnh hưởng đến nam và nữ như nhau.
3. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh máu khó đông
Tiền sử gia đình: Đây là bệnh liên quan đến yếu tố di truyền nên nếu có người trong gia đình bị rối loạn đông máu thì tỷ lệ thành viên mắc bệnh hoặc mang gen bệnh rất cao;
Đột biến: Trong một số ít trường hợp, bệnh máu khó đông có thể xuất hiện sau khi sinh. Đây là những người có hệ thống miễn dịch tạo ra kháng thể tấn công các yếu tố đông máu VIII hoặc IX, gây thiếu hụt yếu tố đông máu và dẫn đến rối loạn đông máu.
4. Cách sống chung với bệnh máu khó đông
Để chẩn đoán chính xác bệnh máu khó đông, ngay khi phát hiện dấu hiệu bệnh, bác sĩ sẽ kê đơn cho bệnh nhân các xét nghiệm di truyền cần thiết. Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị dứt điểm cho căn bệnh này. Do đó, người bệnh cần cẩn trọng trong sinh hoạt hàng ngày với những lưu ý sau:
Đi bộ nhẹ nhàng và cẩn thận, tránh chấn thương có thể dẫn đến chảy máu;
Giữ vệ sinh răng miệng tốt, kiểm tra sức khỏe răng miệng thường xuyên và ngăn ngừa nguy cơ nhiễm trùng răng miệng để giảm nguy cơ chảy máu do bệnh nha chu;
Tập thể dục thường xuyên để tăng sức mạnh cơ bắp và giảm nguy cơ chảy máu;
Tránh sử dụng các loại thuốc có thể gây chảy máu như aspirin, histamine, không tiêm bắp, không châm cứu;
Khi chấn thương gây chảy máu, bạn nên đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được điều trị vết thương.
Nguyên nhân gây bệnh máu khó đông chủ yếu là do yếu tố di truyền. Do đó, để giảm nguy cơ truyền gen bệnh cho thế hệ tương lai, các cặp vợ chồng nên đi tầm soát trước hôn nhân, sàng lọc trước sinh… Và khi có dấu hiệu bệnh, người bệnh nên đến phòng khám càng sớm càng tốt. cơ sở y tế uy tín được khám và chẩn đoán chính xác để điều trị bệnh sớm, giảm nguy cơ biến chứng.
Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn